Biện pháp thụ thai nhờ ngân hàng trứng hoặc tinh trùng của người khác
Biện pháp thụ tinh này áp dụng cách xin trứng hoặc tinh trùng của người khác rồi thực hiện quá trình thụ tinh.
Đối tượng áp dụng: Với những trường hợp người phụ nữ không có trứng rụng hoặc chất lượng trứng không tốt, bị cắt bỏ cả hai buồng trứng
Với người đàn ông không có tinh trùng hoặc tinh trùng bất thường dị dạng không có khả năng thụ thai. Hiện nay nhiều cặp vợ chồng cũng gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng khi chồng bị ung thư tinh hoàn, mắc bệnh nặng hoặc trước khi chết đã gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng.
Biện pháp thực hiện: Phương pháp này thực hiện cũng giống như thụ tinh ống nghiệm hoặc bơm tinh trùng vào bào tương trứng nhưng có điều khác là tinh trùng hoặc trứng của người khác chứ không phải của vợ hoặc chồng.
Tỉ lệ thành công: Đạt hiệu quả 70%.
Xin con nuôi
Xin con nuôi là cách xin con của người khác về để nuôi dưỡng, chăm sóc như con đẻ của mình.
Đối tượng áp dụng: Đối với những cặp vợ chồng hiếm muộn chưa có khả năng sinh con hoặc không thể sinh con thì xin hoặc nhận con của người khác để về chăm sóc.
Biện pháp thực hiện: Tìm đến các trung tâm bảo trợ, phúc lợi xã hội, những đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc tìm hiểu những trường hợp lỡ làng sinh con mà không muốn hoặc không có điều kiện nuôi con, cũng có thể là những gia đình nghèo, hoàn cảnh mà quá đông con không có điều kiện chăm sóc nuôi dạy con cùng với những thủ tục pháp lý phù hợp để xin làm con nuôi và đưa về nuôi dưỡng, chăm sóc, yêu thương. Xin con nuôi là một hành động nhân đạo, giúp đỡ yêu thương những hoàn cảnh khó khăn. Mặt khác giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn giải tỏa được phần nào vấn đề tâm lí, có đứa trẻ để yêu thương chăm sóc và cũng nhờ hành động thiện nguyện cao quí này nhiều cặp vợ chồng sau khi nhận con nuôi một thời gian thì sinh được những đứa trẻ khác.
Tỉ lệ thành công: Hơn 70% tỉ lệ các cặp xin con nuôi đạt ý nguyện.
Rủi ro: Đôi khi những hợp đồng nhận con, xin con không rõ ràng nên bố mẹ đứa trẻ quay lại đòi con hoặc vòi vĩnh tiền bạc…
Mang thai hộ
Là biện pháp thuê hoặc nhờ người phụ nữ khác thực hiện quá trình mang thai cho mình.
Đối tượng áp dụng: Trong trường hợp người phụ nữ bị gặp phải các vấn đề hoặc dị tật ở tử cung mà không thể thực hiện quá trình mang thai.
Biện pháp thực hiện: Cũng thực hiện nhờ biện pháp thụ tinh ống nghiệm hoặc bơm tinh trùng vào bào tương trứng, trứng và tinh trùng sẽ được thụ tinh trong ống nghiệm và trứng là của người khác còn tinh trùng là của người chồng. Sau khi hình thành phôi sẽ cấy vào tử cung người khác và người đó sẽ mang thai hộ cho bạn.
Tỉ lệ thành công: Lên đến 85%
Rủi ro: Có thể mắc phải những phiền lụy trong quá trình mang thai và sau sinh con như sau sinh con người mang thai hộ không chịu trả con…
Kích trứng
Kích trứng là biện pháp hữu ích trong hỗ trợ sinh sản, bệnh nhân sẽ được uống hoặc tiêm thuốc có chứa kích thích tố nhằm làm cho trứng rụng và cải thiện chất lượng trứng, từ đó tăng khả năng thụ thai.
Đối tượng nên áp dụng: Nên sử dụng cho phụ nữ mà trứng rụng không thường xuyên hoặc các tế bào trứng không thể trưởng thành để thụ thai.
Biện pháp thực hiện: Khi xác định được tình trạng và chất lượng trứng ở bệnh nhân bác sĩ sẽ cho uống hoặc tiêm thuốc kích trứng. Trong quá trình này bác sĩ phải theo dõi dựa trên xét nghiệm nội tiết, siêu âm canh noãn, tiếp đó điều chỉnh liều thuốc thích hợp để đạt kích thước nang noãn mong muốn.Đến thời gian thích hợp sẽ tiêm thuốc gây rụng trứng và hẹn ngày gần chồng hoặc ngày lọc rửa tinh trùng để bơm. Trong trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm, từ 35 – 37h sau tiêm, người vợ được tiến hành chọc hút trứng. Trong quá trình này, bệnh nhân được gây mê nhẹ và gây tê tại chỗ. Cùng thời điểm này, người chồng lấy tinh trùng đưa vào phòng lab để chuẩn bị cấy.
Tỉ lệ thành công: Có khoảng 20 – 60% các cặp vợ chồng thành công nhờ phương pháp này.
Rủi ro: Bệnh nhân có thể sẽ bị mắc phải hội chứng đa thai, quá kích buồng trứng, đa nang buồng trứng và đặc biệt nếu tự ý dùng thuốc đôi khi trẻ sẽ bị dị tật bẩm sinh.
Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI)
Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng là kĩ thuật thực hiện phổ biến nhất trong các biện pháp hỗ trợ sinh sản. Biện pháp tiêm tinh trùng trực tiếp vào noãn để tạo phôi, người ta chỉ cần duy nhất một trứng và một nang noãn để tạo ra phôi.
Đối tượng áp dụng: Nam giới gặp tất cả các dạng bất thường về số lượng và chức năng tinh trùng như ít, dị dạng, di động kém; vô sinh nam không có tinh trùng, phải lấy bằng cách chọc hút vào mào tinh; và các bất thường về thụ tinh như tinh trùng và trứng của cả hai vợ chồng bình thường nhưng không thụ tinh được hoặc tỉ lệ thụ tinh thấp; vô sinh không rõ nguyên do; thất bại nhiều lần với thụ tinh ống nghiệm bình thường.
Biện pháp thực hiện: Tương tự với quá trình thụ tinh ống nghiệm chỉ có khác là chỉ có duy nhất một tinh trùng được chọn để tiêm vào trứng trong ống nghiệm, sau vài ngày đợi phôi phát triển thì chuyển vào tử cung và chờ kết quả.
Tỉ lệ thành công: Thường đạt hiệu quả từ 30 -35%.
Rủi ro: Có thể mắc phải hội chứng quá phát buồng trứng hoặc các bệnh khác như phù nề, mệt mỏi…
Thụ tinh ống nghiệm (IVF)
Thụ tinh ống nghiệm là phương pháp hỗ trợ sinh sản cho các cặp vợ chồng không thể có con tự nhiên, phương pháp này lấy trứng của người phụ nữ cho ra ngoài, kết hợp với tinh trùng trong phòng thí nghiệm. Để quá trình thụ tinh xảy ra thì đưa phôi vào tử cung mẹ và nuôi dưỡng.
Đối tượng nên áp dụng: Với những trường hợp người vợ bị tắc nghẽn ống dẫn trứng, lạc nội mạc tử cung, phải xin trứng. Người chồng mắc phải tình trạng tinh trùng ít, yếu, dị dạng, không có tinh trùng trong tinh dịch và lấy ra bằng biện pháp phẫu thuật mào tinh, tinh hoàn và vô sinh không rõ nguyên do.
Biện pháp thực hiện: Để tạo điều kiện lý tưởng (8-15 nang trứng) để làm IVF, người vợ phải kích buồng trứng theo phác đồ phù hợp. Đến thời gian thích hợp sẽ tiêm thuốc gây rụng và chọc hút trứng. Cùng thời điểm này, người chồng lấy tinh trùng đưa vào phòng lab để chuẩn bị cấy, tạo thành phôi. Phôi sẽ được đưa vào buồng tử cung 2-3 ngày sau khi sự thụ tinh diễn ra hoặc được trữ lạnh nếu có chất lượng tốt. Người vợ tiếp tục uống và đặt thuốc để hỗ trợ sự làm tổ, phát triển của phôi thai. Hai tuần sau sẽ xét nghiệm beta và nếu có kết quả thì siêu âm sau ba tuần thử thai dương tính.
Tỉ lệ thành công: Rơi vào khoảng 55 – 60% nhưng nếu ở những cặp mà người vợ đã lớn tuổi thì tỉ lệ thành công sẽ thấp hơn.
Rủi ro: Phát triển đa thai, hội chứng buồng trứng đa nang, nhiễm trùng…
Thụ tinh nhân tạo (IUI)
Thụ tinh nhân tạo là biện pháp điều trị vô sinh đầu tay và được áp dụng từ lâu ở nước ta. Biện pháp này người ta bơm tinh trùng vào buồng tử cung để điều trị và sinh con.
Đối tượng nên áp dụng: Với những trường hợp bệnh nhân gặp phải các vấn đề như bất thường phóng tinh (xuất tinh ngược, lỗ tiểu đóng thấp, bất lực do tâm lý, chấn thương cột sống); yếu tố tử cung (chất nhầy không thuận lợi, ít chất nhầy); các vấn đề về tinh trùng (tinh trùng ít, yếu, dị dạng); vô sinh không rõ nguyên nhân; lạc nội mạc tử cung dạng nhẹ và vừa; rối loạn phóng noãn thì người ta áp dụng biện pháp này.
Điều kiện thực hiện: Người vợ phải có ít nhất một vòi trứng thông, buồng trứng vẫn hoạt động. Người chồng có tinh trùng bình thường hoặc bất thường ở mức độ nhẹ.
Phương pháp thực hiện: Kĩ thuật thực hiện gồm ba bước là kích thích buồng trứng để đạt được nhiều nang noãn, chọn tinh trùng bằng phương pháp tự nhiên hoặc qua lọc rửa tinh trùng để tìm ra các tinh trùng tốt và bước cuối là bơm tinh trùng vào buồng tử cung thông qua một ống thông.
Tỉ lệ thành công: Đạt khoảng 10 – 40%, nhưng nếu thực hiện đúng chỉ định và phương pháp thì tỉ lệ thành công lên đến 80%.
Rủi ro: Có thể gặp phải chảy máu âm đạo, nhiễm trùng âm đạo, đa thai…