Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 2
“Loại văn chương không đáng thờ là loại văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương, loại văn chương đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. (Nguyễn Văn Siêu). Đúng như vậy! Văn chương là món ăn tinh thần của nhân loại. Chính vì vậy, văn chương luôn phải phản ánh chính xác cuộc sống con người, luôn phải hướng về con người và đồng cảm với con người. Đó cũng chính là hai giá trị lớn của văn chương là hiện thực và nhân đạo. Trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, hai giá trị này lại được nâng cao vị trí của mình để phản ánh chính xác cuộc sống của con người. Một trong số những tác phẩm như vậy đó chính là tác phẩm “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam).
Đầu tiên, “Hai đứa trẻ” mang một giá trị hiện thực sâu sắc. Vậy giá trị hiện thực là gì? Giá trị hiện thực là phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh. Một tác phẩm văn học nào cũng có giá trị hiện thực vì văn học bắt nguồn từ đời sống, bắt nguồn từ hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, bắt nguồn từ hiện thực, tình cảm, tâm lí… Trong tác phẩm văn học, giá trị hiện thực là sự phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh; chỉ ra nguyên nhân gây đau khổ cho con người và miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Ở mỗi tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được miêu tả đa dạng. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm như thế.
Trước tiên, chất hiện thực thể hiện rất rõ ở bức tranh phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời mòn mỏi, quẩn quanh và bế tắc. Bức tranh mở ra bằng âm thanh của tiếng trống thu không. Thứ âm thanh không vô tình và chất chứa cả nỗi niềm của con người. Tiếng trống vang xa gọi chiều về nhưng cũng gọi về cả một nỗi niềm xao xác. Tiếng trống thu không như một bức thông điệp báo hiệu chiều về là âm thanh của ngày tàn nơi phố huyện “từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”. Tiếng trống đời thực mà xa xăm như vọng về những chiều quê muôn thuở “Chiều, chiều rồi”. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn đỏ rực như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến là những lũy tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Đó là một buổi chiều (êm ả như ru) trong những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đổng ruộng” được ngọn gió nhẹ hoang vu mang vào phố huyện. Hòa vào đó là tiếng muỗi vo ve thật gợi buồn. Cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi “mùi âm ẩm bốc lên hòa vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Đối với hai chị em Liên đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương bình dị, quen thuộc. Đêm xuống âm thanh có vẻ mờ nhạt hơn đến nỗi Liên chỉ nghe thấy hoa bàng rụng xuống trên vai mình khe khẽ. Phố huyện giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc và mênh mông “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xầm đen hơn nữa”. Cảnh vật thật đẹp nhưng buồn, thấm thía vào tâm hồn chúng ta. Chỉ bằng vài nét phác họa nhưng cũng để cho ta thấy có một nỗi buồn bâng khuâng, man mác, mơ hồ trong khung cảnh làng quê.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy, lần lượt hiện ra những mảnh đời thật tội nghiệp. Đó là hình ảnh của kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Thạch Lam đã cho ta thấy cảnh sống nơi phố huyện: không ồn ào, to tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của cuộc sống, nhà văn đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh, nhàm tẻ nơi phố huyện nghèo. Giữa cái cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre giữa những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Bác Hồ đã từng nói:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”.
Trẻ thơ là nơi khơi đầu của biết bao mơ mộng, tươi sáng cho tương lai. Thế nhưng lũ trẻ ở cái phố huyện này lại phải đi kiếm miếng ăn trang trải cuộc sống hàng ngày. Tuổi thơ của những đứa trẻ ở đây đã phải sớm giã từ nhìn thấy cảnh ấy, Liên động lòng thương nhưng chính Liên cũng không có tiền để cho chúng nó.
Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiện thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước. Cảnh đó hiện lên qua đôi mắt của Liên – Một ánh mắt trẻ con: “Thằng cu bé xách cái điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra, mẹ nó theo sau, đội cái chõng trên đầu và tay không biết mang theo bao nhiêu đồ đạc, tất cả cái cửa hàng của chị”. Cuộc sống của gia đình chị cũng thật vất vả. Ngày thì mò cua bắt tép, tối dọn hàng. Dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Cả gia tài của chị cũng chỉ là một chõng hàng. Đây chính là một điển hình cho cuộc sống lay lắt ngoi ngóp giữa phố huyện. Đó chỉ là sự cầm chừng, sự tồn tại trong vô vọng, không phải là cuộc sống thực sự.
Tiếp đến là hình ảnh cụ Thi điên mang đến và mang theo một tiếng cười khanh khách nhỏ dần. Một cụ Thi điên cuộc đời không rõ ràng. Giọng nói, lời khen, cử chỉ xoa đầu… thật hiền. Nhưng cái cách ngửa cổ uống một hơi cạn sạch, cái dáng lảo đảo, điệu cười khanh khách rõ ràng đang ẩn chứa một nỗi lòng u uất cứ chìm dần vào trong bóng đêm… Phải chăng đó chính là sản phẩm của cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh. Người điên, người thì còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa rồi! Thật đáng thương!
Đêm xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu. Gánh phở như hi vọng sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Bác Siêu xuất hiện với những chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm, mất đi rồi lại hiện ra. Trong đêm tối, bóng bác mênh mông ngả xuống đất và kéo dài đến tận hàng rào. Cuộc đời con người giống như cái bóng, cái bóng ấy cứ kéo dài mãi mà lại ẩn hiện để thấy được một kiếp người lam lũ, mờ nhạt và buồn tẻ của con người. Tưởng tằng cái món hàng này rất sáng sủa nhưng cũng rất ế ẩm bởi phở trở thành một món quà xa xỉ ở cái phố huyện này.
Cùng với đó là gia đình nhà bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, bám sát mặt đất trong bóng tối của đêm khuya. Ở cái phố huyện này, cơm còn đang chẳng có mà ăn huống chi đi nghe gẩy đàn bầu. Chính vì vậy, cuộc sống của họ gần với cuộc sống của loài bò sát hơn là cuộc sống của con người khi bác Xẩm sờ soạng trên manh chiếu rách và đứa con nghịch ngợm rác bẩn ngoài đất “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong im lặng” hàm chứa sự đau đớn run rẩy tủi hờn của cái nghèo khổ hiu hắt.
Cuối cùng, nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên. Chiều tàn, Liên ngồi lặng bên quả thuốc sơn đen, cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, tối, muỗi, gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn bằng tấm phên nứa, gián giấy nhật trình. Cha của hai em mất việc phải rời từ Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng và trông coi gian hàng nhỏ xíu, nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu giữa “một vùng sáng rực” của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Thấp thoáng sau những người đó còn là bà Lực, cụ Chi, người mẹ tảo tần, người cha mất việc, bà lão móm,… những con người dân quê chỉ có tiền mua chịu nửa bánh xà phòng, chủ nhân của gian hàng có tấm phên nứa, gián giấy nhật trình, cảnh sống bần hàn hiện lên quaq từng đường nét với nhịp sống tẻ nhạt, buồn bã.
Chừng ấy mảnh đời, kiếp người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, một xã hội sa sút, tiêu điều, trì trệ, một cái xã hội “mọc mốc”. Đó là xã hội của những hình nhân biết cử động trong thiên truyện ý tưởng của Xuân Diệu: “Tỏa nhị Kiều”. Họ thực sự là những con người sống một cuộc đời tẻ nhạt như những con tàu không đổi chuyến. Những kiếp người quẩn quanh đó đã đi vào trong thơ của Huy Cận:
“Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện “.
Không đi vào xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện thực, Thạch Lam đã lặng lẽ, góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen nhàm, bình lặng những đốm sáng nhỏ bé, leo lét trong bóng tối tịch mịch để làm nên bức tranh hiện thực khó quên.
Bức tranh hiện thực có sức ám ảnh bởi lẽ Thạch Lam đã vẽ bằng bút pháp lãng mạn. Bút pháp giàu cảm xúc, yêu thiên nhiên, cái tôi tự ý thức, cảm nhận cái vô nghĩa của cuộc sống quanh mình. Trong bóng tối, hai chị em ngồi chõng ngắm sao, ngắm phố hướng về những nguồn sáng. Khi trời vào đêm, hai chị em ngước nhìn những vì sao. Mỗi đêm chúng sống một hiện thực đầy mộng tưởng. Hai đứa trẻ nghèo không có tài sản gì, trừ bóng tối và từ bóng tối ấy dấy lên những đốm lửa để soi rọi tâm hồn chúng. Ba lần hướng về ánh sáng cho đở buồn, lần thứ tư ánh sáng đoàn tàu mới là sựu mong mỏi của chị em Liên, để từ đó cháy lên niềm khát khao về một thế giới tươi sáng hơn. Đẹp mà lành, dịu mà xót, yên ả mà khuấy động, Thạch Lam có nói gì nhiều đâu, còn Liên và An hay ngững người dân phố huyện chỉ yên lặng lắng nghe và lặng nhìn. Vậy mà mỗi thời khắc đi qua đều đẻ lại những dư vị khó quên, xao xuyến như thịt da, sâu thẳm như tâm hồn, khẽ gợi trong ta bao niềm thổn thức.
Bên cạnh giá trị hiện thực đầy sâu sắc thì “Hai đứa trẻ” còn mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Vậy giá trị nhân đạo là gì? Giá trị nhân đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình yêu thương giữa người với người. Một nhà văn chân chính là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa, phất cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng con người và bênh vực quyền sống cho con người. Trong tác phẩm văn học, giá trị nhân đạo là tình cảm, thái độ của chủ thể nhà văn đối với cuộc sống của con người được miêu tả trong tác phẩm thể hiện cụ thể ở lòng xót thương những con người bất hạnh, phê phán những thế lực hung ác áp bức, chà đạp con người, trân trọng những phẩm chất, khát vọng tốt đẹp của con người, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người…
Đồng thời tư tưởng nhân đạo còn thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật, qua cảm hứng, cảm xúc, giọng điệu… Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hoàn cảnh lịch sử, xã hội, do ý thức hệ tư tưởng của các nhà văn khác nhau nên có những biểu hiện riêng. “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là tác phẩm điển hình thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Đầu tiên, “Hai đứa trẻ” thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương với số phận bất hạnh trong xã hội cũ trước năm 1945. Qua khung cảnh phố huyện nghèo đói, lụi tàn, Thạch Lam muốn bày tỏ niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng của hạnh phúc. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt, vô nghĩa, đời sống cạn kiệt, mòn mỏi cả về vật chất lẫn tinh thần. Chị Tí ngày nào cũng dọn hàng, cứ nhịp ấy dù chẳng bán được bao chị vẵn dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Bác Siêu thì đêm nào cũng bán phở và rất ế ẩm. Cụ Thi điên ngày nào cũng ghé qua hàng của Liên để mua rượu… Và đặc biệt là Liên – một cô bé mới lớn.
Buổi chiều nào em cũng phải chứng kiến cái cảnh đượm buồn của ngày tàn, khi đêm đến thì lại chứng kiến cái “ao đời phẳng lặng”. Tâm hồn của Liên vốn dĩ rất tinh tế, rất nhạy cảm nên em luôn cảm nhận được mọi thứ diễn ra xung quanh mình. Nhưng cứ sống mãi trong cái cảnh bình lặng này thì tâm hồn Liên sẽ dần bị chai sạn, sẽ dần bị đông cứng… Những người trong phố huyện này sống một cách rất tẻ nhạt, vô vị, họ như tồn tại theo chiều quay của kim đồng hồ vậy, cứ hết hôm nay lại đến ngày mai. Cuộc sống này đã được Xuân Diệu nói: “hết cơm mai rồi lại cơm chiều”. Cuộc sống thì thiếu thốn đủ thứ cả về cái ăn, cái mặc,… đến cái tinh thần… Thạch Lam đã cảm thấy đau đớn, xót xa thay cho những cảnh đời sống một cách tẻ nhạt đến vô vị như vậy.
Thạch Lam trân trọng tình người, đồng cảm với những ước mơ, nguyện vọng chính đáng, ý thức cuộc sống hạnh phúc cá nhân của con người. Qua “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải, lụi tàn ngọn lửa của lòng khát khao cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát ra khỏi cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn chôn vùi họ. Sống giữa phố huyện nghèo và đầy bóng tối nên những người nơi phố huyện trong đó có chị em Liên vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khopor hàng ngày”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêmvẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm đi qua.
Chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng của bác Siêu. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ díu cả mắt” vẫn cố thức, còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống” vẫn không quên dặn chị “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Đó là sự mong muốn được cải cách về tinh thần. Chúng cố thức đợi tàu không phải là vì mục đích bán hàng như lời mẹ dặn, bởi lẽ năm nay mùa màng kém, người buôn bán, người đi lại ít. Nếu có khách họ chỉ mua bao diêm hoặc phong thuốc lào là cùng, hai chị em thức chờ tàu xuất phát từ cuộc sống tinh thần.
Khi con tàu rầm rộ đến, Liên gọi em dậy. Mặc dù đang ngủ say, An vội bật dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Dù chỉ trong chốc lát nhưng hình ảnh “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng” thì đọng lại mãi. Đứng ngắm lặng con tàu đi qua, Liên không trả lời câu hỏi của em, trong tâm hồn cô, cơn xúc động vẵn chưa lắng xuống: “Liên lặng theo mơ tưởng Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo…” Cùng với con tàu hai chị em trở về quá khứ đẹp tươi, con tàu chạy từ Hà Nội, chạy tới từ tuổi thơ đã mất, con tàu chính là tia hồi quang về quá khứ. Cũng cùng với con tàu hai chị em còn được sống trong một thế giới mới tốt hơn, một thế giới sáng sủa và sôi động hơn rất nhiều lần so với cuộc sống hiện tại của chúng bây giờ.
Thạch Lam sống gắn bó và nặng lòng với tầng lớp thị dân nghèo, những kiếp người nhỏ bé sống quẩn quanh. Nên ông viết về họ với một niềm chân tâm, chân cảm, thấu hiểu tột cùng với muôn nỗi khốn khó trong cuộc sống của họ. Trước đây, văn học chú ý đến cái đói vật chất thì giờ đây văn học của ý thức cá nhân mới chạm đến được cái buồn chán cá nhân, tới nỗi đau riêng của mỗi con người. Cái nghèo là cái đói vật chất, cái buồn chán là cái đói tinh thần, âm ỉ, tê tái hơn. Nỗi đau tinh thần của con người nơi phố huyện được Thạch Lam miêu tả bằng một sắc thái nhẹ nhàng nhưng gieo vào lòng người được rất nhiều bận bịu. Ngòi but Thạch Lam tin yêu con người nên trong tác phẩm của ông dù nhân vật phải sống mòn mỏi, tù túng thì nhà văn vẫn dẫn dắt nhân vật hướng về phía ánh sáng của sự sống. Vì thế, “Hai đứa trẻ” mang âm hưởng lãng mạn bay bổng.
Để thể hiện rõ giá trị của văn bản thì nghệ thuật cũng là một phần quan trọng. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” không có cốt truyện nó như một bài thơ. Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh. Thạch Lam đã sử dụng thành công thủ pháp đối lập tương phản, đối giữa ánh sáng và bóng tối, giữa quá khứ và hiện thực. Điều đó sau những dòng chữ, ta lại thấy một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, nhạy cảm với mọi biến thái của lòng người.
Cùng yêu thương con người, tôn trọng con người nhưng Thạch Lam chưa chỉ ra con đường để nhân vật của mình đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui của cuộc đời mới. Họ nhìn đời, nhìn người bằng con mắt tình thương nhưng chưa gắn với tinh thần đấu tranh cách mạng, kết thúc truyện vẵn là chi tiết phố huyện trùm trong tĩnh mịch và bóng tối.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một lời nhận xét rất độc đáo “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng đồng thời cũng gióng lên một cái gì còn ở trong tương lai. Nơi cái thế giới của một đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã trở thành thói quen của cảm xúc và ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ” thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín. Nói theo lời Nguyễn Tuân, ta có thể thêm: đọc tác phẩm của Thạch Lam, thấy bận bịu vô hạn về một ước mơ, một khát vọng tràn đầy tinh thần nhân văn, nhân bản từ hiện thực cuộc sống.
Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 3
Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 -1945. Những truyện ngắn của Thạch Lam được đánh giá như những bài thơ trữ tình đượm buồn vì vừa đậm chất trữ tình vừa thể hiện cảm quan hiện thực sâu sắc.- Hai đứa trẻ (in trong tập Nắng trong vườn) là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, vừa tiêu biểu cho bút pháp của nhà văn, vừa thể hiện giá trị tư tưởng sâu sắc và mới mẻ.
Giá trị nhân đạo: là một trong những phương diện quan trọng tạo nên giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, thể hiện thái độ của nhà văn trước hiện thực cuộc sống (sự thấu hiểu, cảm thương, trân trọng, bất bình… ). Với Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã cất lên tiếng nói nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của mình từ một bức tranh cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu nơi phố huyện nghèo.
Tác phẩm đưa người đọc vào một bức tranh liên hoàn (từ buổi chiều hoàng hôn chạng vạng đến đêm khuya) nhằm khắc họa cuộc sống buồn tẻ, tù đọng nơi phố huyện nghèo. Nơi ấy, hiện dần lên những hoạt động âm thầm, lặng lẽ của những kiếp người nhỏ bé, sống cuộc sống mờ mờ nhân ảnh. Đó là cảnh phiên chợ chiều đã vãn nghèo nàn, tiêu điều cùng hình ảnh mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh. Đó là mẹ con chị Tí bán hàng nước, cứ bày ra rồi lại thu vào vì vắng khách. Đó gánh phở của bác Siêu – một thứ quà xa xỉ ở nơi này, đang ế khách. Đó là vợ chồng bác Xẩm có đứa con đang bò lê nghịch những rác bẩn ven đường …
Nổi bật lên trong tác phẩm là chị em cô bé Liên với tâm trạng đợi tàu. Ngày này qua ngày khác, cuộc sống của chị em Liên trôi qua trong tẻ nhạt ở cửa hàng tạp hóa với những món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi… Bởi thế, việc đợi một chuyến tàu đêm – hoạt động khá nổi bật nơi này, dường như đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu, thành một biểu tượng cho những mong mỏi tội nghiệp được thay đổi cuộc sống (cảnh đợi tàu của chị em cô bé Liên được miêu tả khá tỉ mỉ: từ sự ngóng đợi, tâm trạng háo hức khi đoàn tàu đến, nỗi tiếc nuối, dòng mơ tưởng về một Hà Nội xa xăm, một Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo khi đoàn tàu đi qua…)
Thạch Lam thể hiện tấm lòng cảm thông, xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh ở phố huyện nghèo, nói rộng hơn là của những con người nhỏ bé sống trong xã hội cũ; trân trọng trước những ước mơ, khát vọng muốn được thay đổi cuộc sống của những con người tưởng như chưa bao giờ được biết đến niềm vui, ánh sáng và hạnh phúc.
Hai đứa trẻ thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Thạch Lam. Đặt trong bối cảnh xã hội lúc ấy, tác phẩm không chỉ thể hiện mối quan tâm sâu sắc của nhà văn trước những mảnh đời nhỏ bé mà còn có tác dụng tích cực, góp phần làm lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn.
Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 4
Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 -1945. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, vừa tiêu biểu cho bút pháp của nhà văn, vừa thể hiện giá trị tư tưởng sâu sắc và mới mẻ. Câu chuyện thấm đẫm cảm quan trữ tình, bởi vậy tinh thần nhân đạo hiện hữu rất rõ rệt.
Tác phẩm Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn, xuất bản năm 1938. Truyện nhưng không có chuyện, chỉ là câu chuyện tâm tình. Câu chuyện không phát triển theo logic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, gói gọn trong không gian nhỏ hẹp nơi phố huyện nghèo hẻo lánh với những con người nhỏ bé, những cảnh đời đơn điệu hắt hiu. Toàn truyện là những cảm xúc và tâm trạng của những đứa trẻ nơi phố huyện đó trong khoảng thời gian từ chiều đến đêm. Ngòi bút của Thạch Lam tỏ ra thật tinh tế trong việc diễn tả những rung động của hai đứa trẻ.
Giá trị nhân đạo là một trong những phương diện quan trọng tạo nên giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, thể hiện thái độ của nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Với Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã cất lên tiếng nói nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của mình từ một bức tranh cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu nơi phố huyện nghèo.
Tác phẩm đưa người đọc vào một bức tranh buổi chiều hoàng hôn chạng vạng nơi phố huyện nghèo. Nơi ấy, hiện lên với những hoạt động âm thầm, lặng lẽ của những kiếp người nhỏ bé, sống cuộc sống mờ mờ nhân ảnh. Đó là cảnh phiên chợ chiều đã vãn nghèo nàn, tiêu điều cùng hình ảnh mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh. Đó là mẹ con chị Tí bán hàng nước, cứ bày ra rồi lại thu vào vì vắng khách. Đó gánh phở của bác Siêu – một thứ quà xa xỉ ở nơi này, đang ế khách. Đó là vợ chồng bác Xẩm có đứa con đang bò lê nghịch những rác bẩn ven đường … Nổi bật lên trong tác phẩm là chị em cô bé Liên với tâm trạng đợi tàu. Ngày này qua ngày khác, cuộc sống của chị em Liên trôi qua trong tẻ nhạt ở cửa hàng tạp hóa với những món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi… Niềm mong mỏi cho cả một ngày của hai chị em là cùng thức để chờ đợi chuyến tàu đêm ngóng đợi, háo hức khi đoàn tàu đến bao nhiêu thì nỗi tiếc nuối về một Hà Nội xa xăm, một Hà Nội sáng rực vui vẻ lại rõ rệt bấy nhiêu.
Miêu tả về số phận của những con người nơi phố huyện, Thạch Lam thể hiện tấm lòng cảm thông, xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh ở phố huyện nghèo, nói rộng hơn là của những con người nhỏ bé sống trong xã hội cũ; trân trọng trước những ước mơ, khát vọng muốn được thay đổi cuộc sống của những con người tưởng như chưa bao giờ được biết đến niềm vui, ánh sáng và hạnh phúc.
Hai đứa trẻ thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Thạch Lam. Đặt trong bối cảnh xã hội lúc ấy, tác phẩm không chỉ thể hiện mối quan tâm sâu sắc của nhà văn trước những mảnh đời nhỏ bé mà còn có tác dụng tích cực, góp phần làm lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn.
Đọc truyện của Thạch Lam ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn áp bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải uất ức, căm giận những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời. Tư tưởng nhân đạo ấy được toát lên trước hết ở niềm thương xót chân thành của nhà văn trước những cảnh đời đơn điệu, hắt hiu nơi phố huyện nhỏ bé. Nhà văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô nghĩa, họ đang tồn tại chứ không phải đang sống bởi cuộc sống của họ quá buồn chán, lặp đi lặp lại những điều tẻ nhạt chỉ vì cuộc sống mưu sinh.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện không có truyện, không có những biến cố căng thẳng dồn nén, những xung đột gay gắt, những tình tiết căng thẳng, thời gian ngắn, nhân vật không nhiều. Nhưng câu chuyện vẫn hấp dẫn người đọc bởi chính mạch tâm tình của nó. Cả truyện được phát triển theo những diễn biến tâm trạng tinh tế, phức tạp của các nhân vật. Từ đó khơi ngợi cho người đọc những xúc cảm thân quen, những nỗi niềm về quá vãng… Cách kể chuyện tâm tình là một sáng tạo riêng của Thạch Lam góp phần tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn, góp phần làm nổi bật tinh thần nhân đạo của truyện.
Nhân vật trong tác phẩm Hai đứa trẻ không được xây dựng là những tính cách điển hình mà được khám phá ở chiều sâu tâm trạng. Nghệ thuật phân tích tâm lí của ngòi bút Thạch Lam tạo nên sự thành công của thiên truyện.Đối lập giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên những ám ảnh trong lòng người: bóng tối bao trùm toàn tác phẩm. Ngoài ý nghĩa tả thực hình ảnh bóng tối rất ám ảnh. Cảnh phố phường chìm trong bóng tối được diễn tả chi tiết khiến người đọc dễ liên tưởng tới xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn hấp dẫn người đọc bằng chính vẻ đẹp của cuộc sống đời thường đã được khám phá, cảm nhận bằng chính ngòi bút tinh tế và giọng văn nhẹ nhàng của tác giả. Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình đượm buồn thể hiện những giá trị nhân đạo mới mẻ và qua đó, chúng ta còn thấy được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ trang trọng trước sự sống.
Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 6
Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn và lấy từ những chân cảm với đời, với những con người ở tầng lớp nghèo, thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, nhạy cảm trước cuộc sống của mọi người xung quanh. Chính tình cảm và sự quý mến ấy của ông đã giúp ông nhận thức sâu sắc tinh tế, “hai đứa trẻ” là một tác phẩm của Thạch Lam đã làm tái hiện lên hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng mới mẻ, đặc sắc, trỗi dậy được những rung động cực điểm trong tâm hồn bao thế hệ bạn đọc.
Tác phẩm Hai Đứa Trẻ được in trong tập “nắng trong vườn” xuất bản năm 1938, chuyện nhưng không có chuyện chỉ là câu chuyện tâm tình, câu chuyện không phát triển theo lôgic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương gói gọn trong không gian nhỏ hẹp nơi Phố huyện nghèo, hẻo lánh, với những con người nhỏ bé, những cảnh đơn điệu, hắt hiu….Phải chăng câu chuyện ấy cũng chính là câu chuyện đời tác giả – một cuộc đời buồn Giản dị mà tâm hồn sâu sắc.
Sinh ra tại Hà Nội nhưng thủa nhỏ Thạch Lam sống ở quê ngoại, ở phố Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Đó là một Phố huyện nghèo, hẻo lánh tiêu điều mà suốt thời thơ ấu ông đã ở đó cùng một người chị gái, sống những năm tháng buồn tẻ lay lắt, nhạt nhòa. Có lẽ truyện ngắn “hai đứa trẻ” chính là một trong những nhật ký về quãng thời gian Thạch Lam sống ở đây, nên ông mới thấu hiểu được nỗi khổ của những kiếp người nhỏ bé như vậy, từ đó vẽ nên một bức tranh Phố huyện U buồn tĩnh mạch, để thể hiện giá trị nhân đạo và hiện thực một cách sâu sắc.
Trước hết giá trị hiện thực thể hiện rõ ở bức tranh Phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời mòn mỏi, quấn quanh bế tắc, đó chính là hình ảnh khái quát đầy đủ cái tăm tối chật hẹp của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Bức tranh đời sống Phố huyện mở ra bằng một cảnh chiều tàn với những âm thanh quen thuộc của đồng quê, bắt đầu bằng tiếng trống thu không vang vọng như đang gọi “chiều chiều rồi” một chiều êm ả như ru vắng vẳng tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng, theo gió nhẹ đưa vào, hòa vào đó là tiếng muối kêu thật gợi buồn, lại một buổi chiều nữa mà Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời lụi tàn, đỏ rực như lửa cháy khiến những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, tiếp đến là những lũy tre làng đen lại vòi cắt hình rõ rệt trên nền trời, cảnh thiên nhiên Phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi mùi ẩm mốc bốc lên, hòa với hơi nóng của ban ngày, lẫn với cát bụi….
Với hai chị em Liên đó là mùi riêng của đất, mùi quê hương bình dị quen thuộc bên âm thanh mờ nhạt và thưa thớt, đến mức chỉ còn nghe thấy tiếng hoa bàng rụng xuống trên tay khe khẽ từng loạt một. Phố huyện nghèo giờ chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng đen sẫm hơn nữa, bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó những điểm sáng le lói lập lòe yếu ớt của đàn đom đóm một đốm sáng lờ mờ của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những hột sáng nhỏ nhoi, lọt qua bên cửa, rồi gian hàng chị em Liên…..
Những đốm sáng trong đêm tối ấy phải chăng là biểu tượng cho kiếp người nhỏ bé vô danh sống cuộc sống leo lét, vất vưởng trong Đêm tối của xã hội cũ và chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những hạt cát cuộc sống. Thạch Lam đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh buồn tẻ nơi Phố huyện nghèo, đó là gia đình chị Tý ngày mò cua bắt tép, tối dọn hàng, dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Cả gia tài Của chị chỉ có một chõng hàng, hay đó là bà cụ Thi điên với điệu cười khanh khách, đau khổ, là bác Siêu với gánh phở xa xỉ, gia đình bác Sẩm với điệu đàn bầu run bần bật.
Và cuối cùng là hai chị em Liên chính là mảnh đời đáng thương nhất, có tâm hồn đặc biệt nhạy cảm nên chúng sớm nhận ra nhịp điệu buồn tẻ của cuộc sống nơi Phố huyện. Chừng ấy mảnh đời kiếp người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, một xã hội sa sút tiêu điều, tồi tệ, một xã hội “đang nổi váng lên” đó là một xã hội với những hình nhân biết cử động. Trong thiên truyện ý tưởng của Xuân Diệu “Tỏa Nhị Kiều” họ thực sự là những con người sống một cuộc đời tẻ nhạt, như tàu không đổi chuyến những kiếp người quẩn quanh đó đã đi sâu vào trong thơ của Huy Cận
“quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
tới hay lui vẫn bẳng ấy mặt người
vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
mà nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”
(quanh quẩn)
Không đi vào xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện thực. Thạch Lam đã lặng lẽ góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen thuộc bình lặng nhưng lẫn khuất leo lét trong bóng tối tính mịch để làm nên một bức tranh hiện thực thật khó quên.
Đọc xong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam, Ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn áp, bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải chứng kiến những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời. Nhưng tác phẩm vẫn chất chứa một tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Tư tưởng nhân đạo ấy trước hết là toát lên từ niềm xót thương chân thành của nhà văn trước những cảnh đời đơn điệu hắt hiu nơi Phố huyện nhỏ, nhà văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô cùng trong cái ao đời phẳng lặng, họ đang tồn tại chứ không phải đang sống. Từ gia đình chị Tý ngày nào cũng mò cua bắt ốc, tối dọn hàng cứ đều đều như thế dù chẳng kiếm được là bao, bác Siêu với gánh phở của mình, hy vọng sẽ kiếm được chút gì đó để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Nhưng ở nơi Phố huyện này phở là một món hàng xa xỉ, vì vậy nguy cơ ế là rất cao. Bác Sẩm dùng lời ca tiếng hát để kiếm sống nhưng ở nơi cái ăn còn chẳng có thì người dân nghèo lấy đâu ra tiền để thưởng thức âm nhạc.
Vì vậy cái nghèo đã luôn rình rập quanh gia đình bác, đây chính là điển hình cho những cuộc đời lay lắt, ngoi ngóp nơi Phố huyện, đó chỉ là sự cầm chừngm sự tồn tại trong vô vọng chứ không phải sự sống thực, phải chăng đó chính là sản phẩm của một cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, người điên, người thì còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa. Khi ta bắt gặp hình ảnh cụ Thi điên, cụ chỉ đủ tiền để mua một ngụm rượu uống một hơi cạn sạch.
Đó là một hình ảnh đầy sức ám ảnh với dáng đi lảo đảo, với tiếng cười khanh khách lan vào trong bóng đêm và cuối cùng là hai đứa trẻ chính là Liên và An, chúng còn nhỏ nhưng đã phải thay mẹ quán xuyến cửa hàng, hơn nữa chúng còn có một tuổi thơ tươi đẹp nơi Hà Nội rực rỡ ánh đèn. Tất cả họ từ chị em Liên đến mẹ con chị Tí, gia đình bác Sẩm,Bác Siêu, cụ Thi điên đều tồn tại trong một nhịp sống trẻ, cuộc sống bế tắc với những công việc tẻ nhạt, buồn chán lặp đi lặp lại. Ngày nào cũng vậy chiều nào cũng thế, đem ra rồi lại dọn vào , gánh đi rồi lại
gánh về. Đọc và thấu hiểu được nhịp điệu ấy, nhà văn thương họ, thương cho tất cả những ai phải sống một cuộc đời tẻ nhạt sống bằng phẳng như Nam Cao nói trong Sống Mòn “Cuộc sống cứ mòn đi, đổ ra,bốc lên”…Thấm đẫm tinh thần xót thương ấy tác phẩm của Thạch Lam có giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. Đó cũng chính là điểm gặp gỡ giữa Thạch Lam với các tác giả khác như Xuân Diệu với khát vọng sống có ý nghĩa
“ Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Không chỉ dừng lại ở sự xót thương với hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện, Thạch Lam dường như còn muốn gióng lên trong tâm trí con người một tia hy vọng, một ước mơ cháy bỏng. Ánh Sáng của con tàu hay chính là niềm khao khát một cuộc sống có ý nghĩa hơn dẫu chỉ là trong mơ, chừng ấy con người khi đêm đã về khuya nên vẫn thao thức không ngủ cho tới khi nghe tiếng còi xe lửa ở đâu đó vang lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi, Liên đã kêu lên “Dậy đi An! Tầu đến rồi”.
Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông, giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt mang theo bao ước mơ và hoài bão, đi tới nơi nào chẳng rõ nên hai chị em Liên vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh leo lét trên toa sau cùng xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre, mà Liên vẫn cứ lặng theo mơ tưởng, dường như Liên đang nhấp nhói trong lòng một ước ao đổi đời, một cuộc sống hiện tại vẫn nhen nhóm một niềm tin hi vọng, một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng hơn như những ngày ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường trong mơ, nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến. Ánh mắt của cô bé cứ đắm chìm mãi vào cõi mơ, tưởng như nghĩ về quá khứ về tương lai và hiện tại, quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ nhạt, mong manh, còn hiện tại thì ngập bóng tối….
Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân đạo của của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thấu hiểu được. Với chị em Liên chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ Là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tươi sáng nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kỳ, nó như một ánh hào quang, một vệt sáng rồi tắt dần xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao đây vẫn là một niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi nỗi buồn tẻ nhạt của hiện tại, để hai chị em Liên chìm vào trong giấc ngủ sau một ngày buồn tẻ.
Đọc xong truyện ngắn hai đứa trẻ ta có cảm giác như được đọc một bài thơ trữ tình đượm buồn, bởi qua tâm trạng của hai chị em Liên, ta rất dễ nhận ra một tiếng nói tâm tình thầm kín nhẹ nhàng, nhưng thấm thía vô cùng trong lòng người đọc, qua đó ta còn thấy người được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ qua việc thể hiện giá trị nhân đạo và hiện thực một cách mới mẻ đặc sắc, với sự kết hợp hài hòa giữa hai giá trị lớn này truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam sẽ còn sống mãi trong lòng bạn đọc.
Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 5
Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đánh thức trong những tâm hồn mệt mỏi, cam chịu những ước mơ mãnh liệt về một cuộc đời đẹp đẽ hơn, có ý nghĩa hơn. Nói cách khác, đó là một lời nhắn gửi: ít ra thì trong cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán, con người cũng phải biết khao khát một điều gì đó; hãy cố gắng vượt lên, đừng buông xuôi theo số phận, đừng để số phận chôn vùi, mỗi người có thể là vô danh, song đừng sống vô nghĩa.
Nhân đạo, lòng thương người (biểu hiện cụ thể: thấu hiểu, thông cảm, xót thương, nâng niu, trân trọng,… con người; lên án, phê phán những thế lực chà đạp con người). Trước hết, qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đã phản ánh một cách chân thực về cuộc sống mòn mỏi của những con người nơi phố huyện (mẹ con chị Tí, vợ chồng bác xẩm, bác phở Siêu, cụ Thi điên,… đặc biệt là hai chị em Liên và An). Đặc điểm chung của những con người này là phải sống một cuộc sống héo hắt, mòn mỏi trong hiện tại và có những mong đợi mơ hồ về một tương lai xa xôi, gần như vô vọng. Viết về họ, nhà văn đã thể hiện sự cảm thông và xót thương sáu sắc với những kiếp đời tàn.
Tác giả đi sâu thể hiện tâm trạng của hai đứa trẻ, đặc biệt là tâm trạng của Liên, cảnh chờ tàu và tâm trạng của Liên khi chờ tàu. Qua đó, nhà văn thể hiện sự trân trọng, nâng niu một cách trìu mến những niềm vui, niềm hi vọng – dù mong manh – của những con người nơi phố huyện vềmột cuộc sống hạnh phúc.
Đương thời, các nhà văn khác trong nhóm Tự lực văn đoàn hăng hái viết những tác phẩm đãphá lễ giáo phong kiến, cổ vũ cho tự do hôn nhân, hô hào cải cách xã hội. Các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,… cũng thể hiện tư tưởng nhân đạo khi viết về con người, đặc biệt là người nông dân nhưng đối tượng mà họ hướng tới là những “người lớn”, nhân vật trung tâm của thời đại, với những vấn đề nóng hổi, lớn lao như tình trạng con người bị bần cùng hoá, lưu manh hoầ; con người bị tha hoá bởi đồng tiền;…
Truyện ngắn của Thạch Lam nói chung, Hai đứa trẻ nói riêng đã thể hiện những nét đạc sắc trong tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Đối tượng mà ông hướng tới là những kiếp người nhỏ bé, đặc biệt là những đứa trẻ – những đối tượng tưởng như không phải là nhân vật trung tâm của thời đại.
Qua tâm trạng của hai đứa trẻ, nhất là tâm trạng của Liên, tác phẩm thể hiện niềm xót thương vôhạn đối với những kiếp người nhỏ bé, không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc thực sự, đến trong ước mơ cũng chẳng biết ước mơ gì hơn một chuyên tàu đêm vụt đi qua cái phố huyện tiêu điều, xơ xác của cuộc đời mình. Ông đã phát hiện và trân trọng những khát khao được đổi đời chính đáng của con người (dù chỉ trong giây lát), nhất là ở những đứa trẻ – những mầm sống nhỏ nhoi đang có nguy cơ bị úa tàn trên mảnh đất cằn cỗi.
Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đánh thức trong những tâm hồn mệt mỏi, cam chịu những ước mơ mãnh liệt về một cuộc đời đẹp đẽ hơn, có ý nghĩa hơn. Nói cách khác, đó là một lời nhắn gửi: ít ra thì trong cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán, con người cũng phải biết khao khát một điều gì đó; hãy cố gắng vượt lên, đừng buông xuôi theo số phận, đừng để số phận chôn vùi, mỗi người có thể là vô danh, song đừng sống vô nghĩa.
Tư tưởng nhân đạo độc đáo ấy được thể hiện trong một truyện ngắn không có cốt truyện mà cấu tứ như một bài thơ trữ tình, mỗi phần là một đoạn thơ, với những chi tiết được tổ chức không phải để miêu tả sự kiện mà để thể hiện những diễn biến tâm trạng, tình cảm của con người. Thấp thoáng sau các cảnh, các nhân vật là hình bóng của nhà văn – một con người nhân hậu, giàu tình thương, tinh tế, dịu dàng, nhạy cảm với nỗi buồn và cái khổ của những người dân nghèo trong xã hội cũ.
Tác phẩm kết thúc nhưng còn để lại trong tâm hồn người đọc bao dư vị mơ hồ, man mác mà ấm áp của tình quê hương, đúng như Nguyễn Tuân đã viết: “Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín”.